Tìm theo thuật ngữ: sân khấu nghệ
thuật Việt Nam.
Toán tử: and.
> Kỳ 1: Cải lương bắt nguồn từ
nghệ thuật đờn ca tài tử
Rõ ràng sự ra
đời của sân khấu cải lương là quá trình lắng đọng, kết tinh có chọn
lọc nhiều yếu tố bên trong, bên ngoài để hình thành một hình thức
sân khấu bản địa Nam bộ, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của đông đảo công
chúng về một cái đẹp tổng hợp của sân khấu ca kịch, đặc biệt là
hình thức thẩm mỹ âm nhạc, ca hát, múa… làm phong phú thêm nền văn
hóa, nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Sự hội tụ những tinh hoa văn
hóa, nghệ thuật đương đại vào sân khấu cải lương giúp loại hình nghệ
thuật non trẻ này vừa ra đời đã nhanh chóng phát triển tới mọi miền
đất nước, chiếm giữ vị trí thượng phong trong nhu cầu thưởng thức
nghệ thuật của khán giả.
Theo nhiều nhà
nghiên cứu, nghệ sĩ lão thành, cải lương Nam bộ có mặt đầu tiên trên đất Bắc là
gánh của ông bầu Nguyễn Văn Súng (Sáu Súng) vào khoảng đầu năm 1920. Không chỉ
chinh phục khán giả thủ đô, ông bầu Nguyễn Văn Súng còn đưa đoàn hát của mình
lưu diễn nhiều tỉnh, thành phía Bắc. Sau chuyến lưu diễn thành công của gánh
Sáu Súng, hàng loạt gánh hát cải lương Nam bộ cũng lên đường ra Bắc. Những vở
diễn đỉnh cao của sân khấu phương Nam qua sự hóa thân của các ngôi sao nổi tiếng
đương thời đã làm nức lòng những người yêu cải lương miền Bắc. Đây cũng là thời
kỳ các nghệ sĩ tiền bối miền Bắc nhanh chóng tiếp thu loại hình nghệ thuật độc
đáo của phương Nam để xây dựng những đơn vị cải lương cho mình. Nhiều gánh hát
được thành lập.
Các nghệ sĩ nhận
HCV giải Thanh Tâm năm 1958: Từ trái qua: Thanh Nga, Ngọc Giàu,Lan Chi, Bích
Sơn. Ảnh: THANH TUYÊN
Tiêu biểu
trong số này phải kể đến những gánh hát của bà bầu Trần Thị Sình (thân mẫu NSND
Ái Liên - bàngoại Nhà giáo Nhân dân Hà Quang Văn - Nguyên hiệu trưởng trường
Sân khấu - Điện ảnh TP.HCM). Từ năm 1935-1950, bà bầu Trần Thị Sình đã liên tiếp
lập ra nhiều gánh hát như Liên Hiệp, Hiệp Thành với thành phần đào kép chủ yếu
là người miền Bắc. Qua khả năng diễn xuất tài hoa và chất giọng ngọt ngào của
những ngôi sao cải lương đất Bắc như Ái Liên, Sĩ Tiến, Đào Mộng Long… những vở
diễn của đoàn như “Huyền Trân công chúa”, “Khuất Nguyên”… không chỉ làm nức
lòng khán giả thủ đô mà còn chinh phục trọn vẹn tình cảm khán giả khắp Bắc -
Trung - Nam. Bằng tài năng và tình yêu sâu nặng với cải lương, những thế hệ soạn
giả, diễn viên, đạo diễn miền Bắc đã làm nên hàng loạt những vở diễn đỉnh cao,
như “Phạm Tải - Ngọc Hoa”, “Trưng Vương” của đoàn Kim Phụng; “Lã Bố và Điêu
Thuyền”, “Chuyện cũ Cổ Loa” của đoàn Chuông Vàng; “Lam Sơn tụ nghĩa”, “Hồi xuân
dược”... Nhiều vở diễn đã đi vào lịch sử như những tác phẩm kinh điển của nghệ
thuật sân khấu Việt Nam, để lại dấu ấn trong lòng công chúng như những di sản
truyền nghề cho đến tận hôm nay.
Các nghệ sĩ nhận
HCV giải Thanh Tâm năm 1958: Từ trái qua: Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lan Chi, Bích
Sơn. Ảnh: THANH TUYÊN
Trở lại miền
Nam, cái nôi của nghệ thuật cải lương, để có được những thời kỳ thăng hoa rực rỡ,
loại hình nghệ thuật này cũng từng đối diện với muôn vàn thử thách, khó khăn. Để
vượt qua những giai đoạn khủng hoảng đó, cải lương đã liên tục làm mới mình. Chẳng
hạn, vào những năm đầu 1930, khi Đông Dương bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi khủng
hoảng kinh tế, hàng loạt những gánh đại ban như Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Đồng Thinh…
đều rã gánh. Đời sống người dân lâm vào cảnh lao đao. Những vở tâm lý xã hội phản
ánh nỗi bất hạnh của người dân dưới cảnh một cổ hai tròng trong sự hà khắc của
lễ giáo phong kiến, như “Tô Ánh Nguyệt”, “Đời cô Lựu”… đã được đông đảo khán giả
ái mộ. Khi giai đoạn khủng hoảng kinh tế qua đi, cuộc cách mạng tháng 8 thành
công, cải lương thêm một lần nữa biến chuyển để thích nghi với hoàn cảnh. Hàng
loạt trường phái cải lương mới ra đời. Tiêu biểu trong số này là phong trào cải
lương “Thật và Đẹp” do NSND Năm Châu khởi xướng. Với chủ trương nghệ thuật cải
lương phải “Thật và Đẹp”, nhiều gánh đã hạn chế dàn dựng những tuồng tích cổ,
dùng nhiều chữ Nho mà chuyển sang những đề tài gần gũi cuộc sống của khán giả,
đòi hỏi nhiều khả năng diễn xuất nội tâm nhân vật. Điều này đã góp phần thúc đẩy
cải lương tâm lý xã hội hồi sinh và phát triển lên một tầm cao mới.
Đặc biệt,
sau Hiệp định Geneve 1954, hàng loạt soạn giả nổi tiếng như Trần Hữu
Trang, Mai Quân, Hà Triều, Hoa Phượng… từ chiến khu trở về đã đem lại
luồng sinh khí mới cho sân khấu, tiếp tục làm nên thời kỳ hoàng kim
cho loại hình nghệ thuật này. Đây là thời kỳ “trăm hoa đua nở” trên sân
khấu cải lương. Hàng loạt những gánh hát đại ban, trung ban đến tiểu ban được
thành lập biểu diễn khắp nơi. Mỗi đoàn hát lại có phong cách riêng đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của khán giả. Đoàn Kim Chung của ông bầu Long chuyên về tuồng hương
xa, kiếm hiệp mang màu sắc diễm tình; đoàn Dạ Lý Hương của ông bầu Xuân thiên về
tuồng hiện đại sát với hiện thực xã hội đương thời; đoàn Thanh Minh của bà bầu
Thơ mạnh về loại tuồng tâm lý xã hội sâu sắc, sang trọng dành cho khán giả trí
thức; đoàn Minh Tơ, Huỳnh Long chuyên hát cải lương hồ quảng, tuồng cổ…
Chính phong cách riêng đã tạo nên sự đa dạng và sức hút cho sân khấu cải lương
thời hoàng kim với hàng loạt những vở diễn, những ngôi sao lẫy lừng
như Thanh Nga, Ngọc Giàu, Phượng Liên, Diệu Hiền, Thanh Nguyệt, Hồng Nga, Lệ Thủy,
Mỹ Châu, Diệp Lang, Phương Quang, Thanh Sang, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Kim
Huệ…
Sau ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều sự kiện xã hội tác động đã góp phần
đưa loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc nhanh chóng thoát khỏi
cơn khủng hoảng gay gắt bởi sự lấn áp của phim ảnh nước ngoài và các
đại nhạc hội kéo dài dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn từ những năm
đầu thập niên 1970 để bước lên một thời kỳ đỉnh cao mới - thời kỳ rực rỡ
nhất trong lịch sửhình thành và phát triển của loại hình nghệ
thuật độc đáo này. Với chủ chương đẩy mạnh cuộc cách mạng tư tưởng
văn hóa, trong bộn bề khó khăn của những năm đầu giải phóng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, tùy theo tình hình thực tế của địa phương, ngành
văn hóa thông tin các tỉnh, thành có thể tổ chức, thành lập các đoàn
cải lương theo mô hình quốc doanh hoặc tập thể, đáp ứng kịp thời
nguyện vọng của đông đảo người hâm mộ. Trung bình, trong suốt thời kỳ
vàng son kéo dài từ 1975 đến 1990, mỗi địa phương có từ 1 đến 3 đoàn
cải lương, thậm chí, nhiều địa phương như TP.HCM có trên dưới 10 đoàn.
Ngoài thế hệ nghệ sĩ hùng hậu là những ngôi sao tỏa sáng lẫy lừng
từ những năm trước giải phóng, sân khấu cải lương còn có sự tham gia
đông đảo của những tác giả, nhạc sĩ, đạo diễn, diễn viên trẻ, tài
năng được đào tạo bài bản trong và ngoài nước. Bên cạnh những kịch bản
tiến bộ cũ được chỉnh sửa lại như “Đời cô Lựu”, “Con cò trắng”, “Tấm lòng của
biển”… sân khấu cải lương đã tích cực góp phần xây dựng đất nước qua
hàng loạt những kịch bản mới có chất lượng nghệ thuật cao, phản ánh kịp thời
những vấn đề của xã hội, như “Tìm lại cuộc đời”, “Ánh lửa giữa rừng khuya”,
“Lửa phi trường”, “Đôi bông tai”, “Khách sạn hào hoa”, “Cây sầu riêng trổ
bông”… được người xem nồng nhiệt đón nhận. Từ Bắc vào Nam, nhiều vở
diễn hàng trăm xuất vẫn không đáp ứng hết nhu cầu ngày càng tăng cao
của khán giả. Rạp không còn sức chứa, các đoàn phải bung ra diễn
tại sân vận động.
Rõ ràng, dưới sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng sự chung lòng, chung sức của nhiều
thế hệ nghệ sĩ, đã làm nên một thời hưng thịnh nhất của cải lương
Nam bộ trong lịch sử phát triển của loại hình nghệ thuật độc đáo
này. Cho đến tận hôm nay, chắc hẳn nhiều thế hệ nghệ sĩ và khán
giả vẫn còn mãi tôn vinh về những thành tựu rực rỡ đã q
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét